Hội chứng Edwards hay còn gọi là thể ba nhiễm sắc thể 18, là một rối loạn di truyền hiếm gặp với tỷ lệ 1 trên 5000 ca sinh, chưa kể những trường hợp đã tử vong khi còn là bào thai. Nghiên cứu cho thấy trên 90% thai nhi được chẩn đoán mắc hội chứng Edwards sẽ khó có thể sốt sót qua năm đầu tiên. Tuổi thọ chỉ được tính theo ngày hoặc tuần.
Nhìn chung, các triệu chứng của hội chứng Edwards (trisomy 18) thường bao gồm đa dị tật bẩm sinh và chậm phát triển nghiêm trọng cả thể chất lẫn trí tuệ. Các triệu chứng xuất hiện trong thời kỳ mang thai và sau sinh dưới đây.
Khi mang thai, bào thai chậm phát triển, thường đến 7 tháng tuổi thì ngừng phát triển khiến cho các cơ quan nội tạng chưa hoàn chỉnh. Đặc điểm của thai nhi mắc hội chứng Edwards gồm:
Chẩn đoán hội chứng Edwards có đến hơn 90% gây sảy thai trong ba tháng đầu của thai kỳ. Tỷ lệ nhỏ vẫn có trường hợp trẻ được sinh ra sống nhưng tuổi thọ ngắn.
Sau khi sinh, trẻ mang có các đặc điểm của hội chứng Edwards, bao gồm:
Dấu hiệu nghiêm trọng liên quan đến bất thường cơ quan nội tạng do chưa phát triển hoàn chỉnh:
Các vấn đề liên quan đến tim và phổi ảnh hưởng đến gần 90% trẻ em được chẩn đoán mắc hội chứng Edwards và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong sớm ở trẻ sơ sinh mắc bệnh này.
Bộ máy di truyền của con người gồm 46 nhiễm sắc thể chia thành 23 cặp. Mỗi cặp nhiễm sắc thể được hình thành do sự ghép cặp nhiễm sắc thể có nguồn gốc từ bố và mẹ.
Hội chứng Edwards xảy ra khi trong quá trình hình thành trứng hoặc tinh trùng, cặp nhiễm sắc thể số 18 không phân chia, kết quả, cả cặp nhiễm sắc thể này sẽ được đưa vào trứng hoặc tinh trùng. Khi quá trình thụ tinh xảy ra, tạo nên hợp tử (thai nhi) mang 3 nhiễm sắc thể số 18.
Sự bất thường này cho đến nay vẫn chưa tìm được bất kỳ mối quan hệ nào liên quan đến các bệnh lý hay tác động của yếu tố ngoại cảnh gây ra hội chứng Edwards.
Chẩn đoán hội chứng Edwards bắt đầu trong thời kỳ mang thai trước khi trẻ được sinh ra. Đây là một trong những biện pháp sàng lọc phổ biến của phụ nữ mang thai trong khoảng 11-14 tuần tuổi.
Cận lâm sàng dùng để sàng lọc là siêu âm, nhằm khảo sát hoạt động của thai nhi, số lượng nước ối, kích thước bánh rau. Bên cạnh đó, kiểm tra xét nghiệm mẫu máu của mẹ cũng để đánh giá mẹ có bất thường nhiễm sắc thể hay không.
Nếu kết quả nghi ngờ, bác sĩ sẽ chỉ định xét nghiệm chẩn đoán bệnh, mục đích là để lấy tế bào thai nhi làm lập bản đồ nhiễm sắc thể, phát hiện dị tật, gồm:
Thông thường, tình trạng này nghiêm trọng đến mức những đứa trẻ sống sót sau khi sinh ra có tuổi thọ rất thấp. Việc điều trị tập trung vào chăm sóc giảm nhẹ cho trẻ. Không có cách chữa trị đặc hiệu cho hội chứng Edwards.
Điều trị hội chứng Edwards có thể bao gồm:
Hầu như tất cả các trường hợp thai nhi được chẩn đoán mắc hội chứng Edwards đều kết thúc bằng sẩy thai hoặc thai chết lưu. Trong số những trường hợp mang thai sống sót đến tam cá nguyệt thứ ba, gần 40% trẻ được chẩn đoán mắc hội chứng Edwards không thể sống sót khi chuyển dạ và gần 1/3 số trẻ sống sót sẽ sinh non.
Tỷ lệ sống sót khác nhau đối với những trẻ sinh ra mắc hội chứng Edwards:
Trẻ sinh ra mắc hội chứng Edwards sẽ cần được chăm sóc đặc biệt để giải quyết các triệu chứng nguy hiểm ngay sau khi chúng được sinh ra.
Nhờ có sự phát triển của y học mà hội chứng liên quan rối loạn nhiễm sắc thể như hội chứng Edwards được chẩn đoán sớm, thậm chí hạn chế tối đa được những thai kỳ dị dạng do có sàng lọc di truyền ngay từ đầu ở những cặp vợ chồng có bộ nhiễm sắc thể bất thường