Bệnh tả do vi khuẩn tả (Vibrio cholerae) gây ra có thể dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng cho sức khỏe, thậm chí là tử vong nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Nếu nhận thấy người thân có những triệu chứng nghi ngờ do bệnh tả, cần nhanh chóng đưa người bệnh đến các cơ sở y tế uy tín gần nhất. Các bác sĩ sẽ thực hiện thăm khám, chẩn đoán, phát hiện nguyên nhân và chỉ định phương pháp điều trị phù hợp nhất với từng ca bệnh.
Bác sĩ sẽ dựa vào những triệu chứng của bệnh tả qua từng giai đoạn bệnh để xác định, chẩn đoán. Các triệu chứng của bệnh tả thường biểu hiện rõ ràng và dễ nhận biết nhất vào thời kỳ toàn phát của bệnh.
Trong vùng dịch tả, các bác sĩ thường chẩn đoán trường hợp bệnh chủ yếu vào các biểu hiện lâm sàng này. Nếu bệnh nhân không ở trong vùng dịch tả, các xét nghiệm cận lâm sàng sẽ được sử dụng nhằm xác định chính xác liệu bệnh nhân có nhiễm vi khuẩn tả hay không.
Các xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán bệnh tả bao gồm:
Việc điều trị bệnh tả sẽ tuân thủ theo 3 nguyên tắc.
Chất thải (phân) của bệnh nhân tả chứa vi khuẩn tả và có thể gây bệnh cho người tiếp xúc phải. Do vậy, cần cách ly người bệnh để đảm bảo an toàn cho những người xung quanh.
Người chăm sóc cũng cần đeo găng tay và rửa tay sạch sẽ sau khi tiếp xúc với chất thải của bệnh nhân. Dụng cụ cá nhân của bệnh nhân tả cần được khử khuẩn bằng các dung dịch sát khuẩn như Chloramine B nhằm tránh lây nhiễm cho người khác.
Với những trường hợp nhẹ hoặc bệnh tả đang ở giai đoạn đầu (chưa mất nước nhiều) hay trong giai đoạn hồi phục, bệnh nhân có thể bù nước bằng đường uống (tại nhà hoặc đến các cơ sở y tế).
Người bệnh có thể uống Oresol pha theo hướng dẫn in trên bao bì của nhà sản xuất, hoặc có thể tự pha dịch thay thế theo một số công thức sau:
Khi uống bù dịch, nên uống từng ngụm nhỏ (đặc biệt là khi có triệu chứng nôn nhiều).
Với những trường hợp nặng, bệnh nhân cần đến ngay cơ sở y tế uy tín gần nhất để được để được điều trị bù nước bằng đường truyền tĩnh mạch.
Các loại dịch truyền có thể được sử dụng cho bệnh nhân mắc vi khuẩn tả là:
Trong quá trình truyền, cán bộ điều dưỡng, bác sĩ sẽ theo dõi các dấu hiệu sinh tồn (mạch, huyết áp,...) và một số chỉ số khác như hematocrit, áp lực tĩnh mạch trung tâm, điện giải đồ để điều chỉnh tốc độ và liều lượng truyền dịch cho phù hợp.
Sau khi đã hết nôn và có thể uống được, bệnh nhân sẽ được chuyển sang phương pháp bù dịch bằng dung dịch uống.
Tùy vào từng trường hợp bệnh nhân, bác sĩ có thể chỉ định một số loại thuốc kháng sinh sau đây:
Sau khi đã sang giai đoạn hồi phục, bệnh nhân có thể bắt đầu ăn lại. Người bệnh nên ăn những món ăn lỏng, dễ tiêu, với trẻ nhỏ còn chưa cai sữa thì cần tăng cường cho trẻ bú mẹ.
Nhìn chung, nếu được điều trị kịp thời, hợp lý, bệnh nhân mắc bệnh tả thường hồi phục mà không để lại hậu quả lâu dài nào và cũng không trở thành một nguồn mang vi khuẩn tả có thể lây cho người khác. Dù vậy, người bị bệnh tả sẽ không có kháng thể với căn bệnh này và vẫn có thể mắc bệnh lại nếu tiếp xúc với phẩy khuẩn tả.