Bệnh tả là một bệnh truyền nhiễm gây tiêu chảy cấp do vi khuẩn Vibrio cholerae gây ra. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh tả có thể dẫn đến tử vong.
Trong lịch sử, bệnh tả bùng phát đã gây ra những đại dịch lớn khiến hàng triệu người đã bị tử vong.Ở Việt Nam, bệnh tả đã xảy ra năm 2009, một số bệnh nhân tử vong do mất nước, toan chuyển hóa nặng. Bệnh thường xảy ra vào mùa hè.
Tác nhân gây bệnh tả là vi khuẩn tả Vibrio cholerae. V.Cholerae được phân loại dựa trên kháng nguyên O và các nhóm huyết thanh. Hiện nay, các nhà khoa học đã phát hiện ra tới ít nhất 200 nhóm huyết thanh của loại vi khuẩn này.
Trong đó, 2 nhóm huyết thanh O1 và O139 là nguyên nhân chính gây nên những ca bệnh tả lưu hành hiện nay và có thể phát thành dịch tả. Các nhóm huyết thanh còn lại thường chỉ gây tình trạng nhiễm khuẩn nhẹ và không có triệu chứng.
Vi khuẩn tả là vi khuẩn gram âm, còn được gọi là phẩy khuẩn tả do nó có hình dạng cong cong như dấu phẩy khi được soi trên kính hiển vi điện tử. Chúng di động rất nhanh nhờ có một sợi lông roi trên cơ thể.
Phẩy khuẩn tả có khả năng sống trong nước và thức ăn khoảng một tuần và có thể tồn tại nhiều năm trong các động vật thân mềm ở vùng ven biển.
Bệnh tả lây theo đường tiêu hóa, chủ yếu là do ăn uống phải thực phẩm, nguồn nước nhiễm vi khuẩn, đặc biệt là thủy hải sản.
Trong nước, vi khuẩn tả sống ký sinh chủ yếu ở các loài động, thực vật thủy sinh phù du như: rong, tảo, đặc biệt ở các động vật giáp xác như tôm, cua, sò, ốc, hến,…
Khoảng 75% người nhiễm vi khuẩn tả không có biểu hiện triệu chứng bệnh. Trong số những người có biểu hiện triệu chứng, 80% là ở thể nhẹ và vừa, 20% có biểu hiện mất nước nặng.
Tùy vào mức độ nặng hay nhẹ, người mắc bệnh tả có thể xuất hiện các triệu chứng sau đây.
Tiêu chảy do bệnh tả có thể dẫn đến tình trạng mất nước và mất cân bằng điện giải nghiêm trọng và khiến bệnh nhân tử vong trong vòng vài giờ nếu không được điều trị kịp thời. Ngoài ra, một số biến chứng khác có thể xảy ra, chẳng hạn như:
Hầu như không thể phân biệt một bệnh nhân mắc bệnh tả với một bệnh nhân bị tiêu chảy cấp tính do nhiễm mầm bệnh khác nếu không xét nghiệm mẫu phân.
Việc chẩn đoán bằng các triệu chứng lâm sàng như nôn mửa hay tiêu chảy chỉ có thể hữu ích trong việc chẩn đoán nếu bệnh nhân ở trong vùng dịch tả.
Trong trường hợp bình thường, người bệnh sẽ phải làm một số xét nghiệm cận lâm sàng như soi phân, cấy phân,... để xác định sự tồn tại của vi khuẩn tả trong cơ thể.
Sau khi có chẩn đoán chính xác, bệnh nhân sẽ được bù nước và điện giải qua đường uống, truyền tĩnh mạch hoặc sử dụng kháng sinh tùy thuộc vào mức độ bệnh.
Với những trường hợp nhẹ, người bệnh có thể chỉ cần điều trị tại nhà. Người chăm sóc cần chú ý những điều sau:
Vi khuẩn tả có thể dễ dàng bị tiêu diệt bởi nhiệt độ cao và các chất diệt khuẩn thông thường như cồn hay clo. Do vậy, việc phòng ngừa bệnh tả cũng tương đối đơn giản, bạn chỉ cần tuân thủ các quy định về an toàn vệ sinh như:
Ngoài ra, bạn có thể cân nhắc việc sử dụng vacxin phòng ngừa bệnh tả nếu phải đến những vùng có dịch tả đang hoành hành. Vacxin tả sẽ được sử dụng theo đường uống, khác với đường tiêm thông thường.
Nhìn chung, bệnh tả cũng là một bệnh lý có thể ra gây nguy hiểm nhất định cho người mắc phải nếu không được điều trị kịp thời. Điều may mắn là bệnh tả rất dễ dàng điều trị và người bệnh sẽ không có di chứng gì sau khi được chữa khỏi.
Điều quan trọng bạn cần làm là luôn ăn uống hợp vệ sinh và chú ý đến những triệu chứng bất thường của cơ thể. Nếu nhận thấy bản thân có những biểu hiện nôn mửa hay tiêu chảy nặng, hãy đến các cơ sở y tế uy tín để được làm các xét nghiệm, chẩn đoán để tìm ra nguyên nhân gây bệnh và điều trị kịp thời.
Mong rằng bài viết trên đây đã mang lại cho độc giả những thông tin hữu ích về bệnh tả.