Hội chứng gan thận là tình trạng suy thận cấp ở những bệnh nhân có bệnh lý gan mạn tính. Các nghiên cứu cho thấy, ở những bệnh nhân xơ gan cổ trướng, tỷ lệ mắc hội chứng gan thận chiếm 18% sau 1 năm và khoảng 39% sau 5 năm.
Hiện nay, cơ chế bệnh sinh của hội chứng gan thận vẫn còn đang nghiên cứu và chưa thật sự rõ ràng. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng hội chứng gan thận hình thành do các nguyên nhân và yếu tố thúc đẩy dưới đây.
Những bệnh lý gan thường gặp trên lâm sàng như: viêm gan do rượu, viêm gan do độc chất (thuốc, độc chất,..), viêm gan do vi rút, tổn thương gan do sốc (sốc tim, sốc phản vệ, choáng nhiễm khuẩn,...),...
Ở những bệnh nhân này thường các tế bào gan sẽ bị tổn thương và xuất hiện các mô sẹo, dẫn đến suy giảm chức năng sinh lý gan, rối loạn chức năng gan. Biến chứng nguy hiểm của quá trình này là các rối loạn tuần hoàn và tổn thương thận, dẫn đến hội chứng gan thận.
Một số cơ chế chính hình thành hội chứng gan thận ở bệnh nhân xơ gan như:
Những nghiên cứu cho thấy, có tới 40% số người mắc bệnh gan giai đoạn cuối hay xơ gan mất bù sẽ mắc hội chứng gan thận. Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi và giới tính, chưa ghi có sự khác biệt giữa các chủng tộc.
Một số yếu tố thúc đẩy dẫn đến bệnh nhân bệnh gan giai đoạn cuối dễ khởi phát hội chứng gan thận hơn như:
Hội chứng gan thận là một biến chứng vô cùng nguy hiểm, bệnh có tỷ lệ tử vong cao. Hiện nay, nguyên nhân của bệnh vẫn còn đang được tìm hiểu và chưa cụ thể, dẫn đến điều trị hội chứng gan thận còn nhiều khó khăn. Vì vậy, dự phòng xuất hiện hội chứng gan thận là rất quan trọng.
Nắm được các nguyên nhân, yếu tố thúc đẩy khởi phát hội chứng gan thận là phương pháp giúp bảo vệ sức khỏe bản thân và gia đình. Bên cạnh đó, khi nhận thấy cơ thể có những thay đổi bất thường cần đến ngay các cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị kịp thời.