Viêm phổi là một bệnh lý thường gặp khi khí hậu lạnh, nhiệt độ ẩm thấp, nhất là vào mùa đông, xuân. Viêm phổi gây ra những biểu hiện khó chịu cho người bệnh như đau ngực, ho, sốt, khó thở,… Điều trị viêm phổi theo y học cổ truyền có nhiều phương pháp, giúp giảm triệu chứng và nâng cao thể trạng cơ thể.
Viêm phổi là tình trạng viêm nhiễm nhu mô phổi bao gồm viêm phế nang (túi khí nhỏ), ống phế nang, túi phế nang, tổ chức kẽ của phổi và viêm tiểu phế quản tận cùng. Bệnh do vi khuẩn, virus, ký sinh trùng, nấm, hóa chất gây nên.
Viêm phổi có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, đặc biệt với trẻ dưới 5 tuổi, phụ nữ có thai, người cao tuổi, những người mắc các bệnh hô hấp mạn tính hay sức đề kháng kém có nguy cơ mắc bệnh và tỉ lệ gặp các biến chứng nguy hiểm cao hơn.
Theo y học cổ truyền, không có bệnh danh của viêm phổi. Tuy nhiên, dựa vào triệu chứng bệnh mà quy vào chứng Khái thấu và Đàm ẩm. Theo Hải Thượng Lãn Ông, chứng Khái (ho có tiếng không có đàm) là Phế khí bị thương, chứng Thấu (ho có đàm mà không có tiếng) là Tỳ khí bị tổn thương, Khái thấu (ho có cả đàm lẫn tiếng) thì Tỳ Phế đều bị bệnh.
Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu do cảm nhiễm ngoại tà lục dâm như ngoại cảm Phong Hàn, Phong Nhiệt cộng với chính khí suy yếu hoặc do bệnh nội thương, tình chí thất điều gây rối loạn công năng các tạng, phế, tỳ, thận mà sinh ra bệnh.
Tà khí dẫn đầu là Phong tà, xâm nhập vào Phế dẫn đến Phế khí mất tuyên phát, khí không túc giáng được gây nên Khái thấu, Phế không khai khiếu ra mũi gây chứng Tỵ uyên (ngạt mũi). Tà khí lưu lại tại Phế sẽ gây phát nhiệt (sốt cao), đàm vàng đặc. Nhiệt thiêu đốt tân dịch gây ho khan hoặc đàm khó khạc, bứt rứt. Diễn tiến nặng hơn sẽ có nhiệt cực sinh phong gây mê sảng, co giật.
Hàn thấp làm tỳ rối loạn chức năng vận hoá thuỷ thấp sinh ra đàm, đàm ứ gây ho có khạc đờm nhiều. Hoặc trường vị tích nhiệt làm tổn thương phế, phế thận âm hư làm cho chức năng thăng giáng khí bị rối loạn, khí và tân dịch đều bị tổn thương dẫn đến ho, khạc đờm.
Tương ứng theo y học hiện đại, người bệnh viêm phổi có các triệu chứng như: sốt, ho, đau ngực, khó thở, thậm chí có trường hợp nhức đầu, đau bụng, buồn nôn, đau cơ dễ nhầm lẫn với các bệnh lý khác. Bệnh nhân nặng có thể bị lú lẫn, mê sảng, co giật,...
Bệnh có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm như tràn khí, tràn dịch, tràn mủ màng phổi, xẹp phổi, áp xe phổi và nhất là nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn,…
Y học cổ truyền có tác dụng tốt trong điều trị viêm phổi mạn tính và giai đoạn đầu của viêm phổi cấp tính, còn giai đoạn sau của viêm phổi cấp tính và đợt cấp của viêm phổi mạn tính thì nên kết hợp cả các thuốc tây y, với phương pháp y học cổ truyền dùng để hỗ trợ điều trị triệu chứng là chủ yếu.
Điều trị bằng y học cổ truyền chủ yếu nhằm mục đích phù chính khu tà, hóa đàm, chỉ khái. Tùy từng thể bệnh mà dùng bài thuốc phù hợp.
Bên cạnh việc sử dụng thuốc, y học cổ truyền cũng có những biện pháp không dùng thuốc hỗ trợ điều trị viêm phổi hiệu quả. Tuy nhiên các phương pháp này chỉ hỗ trợ điều trị, đông y điều trị viêm phổi bằng các bài thuốc vẫn là chính.
Trên đây là một số thông tin về điều trị viêm phổi theo y học cổ truyền. Hy vọng bài viết đã cung cấp cho bạn đọc nhiều thông tin hữu ích.