Ung thư nội mạc tử cung thường gặp ở các nước công nghiệp phát triển, đặc biệt ở các nước Bắc Mỹ, Bắc Âu, Tây Âu,... và ít gặp ở các nước đang phát triển như châu Á.
Ở nước ta hiện nay ung thư nội mạc tử cung có tỷ lệ mắc đứng sau ung thư cổ tử cung (tỷ lệ 1/9). Bệnh nhân mắc bệnh thường chiếm tới 75% trong thời kỳ đã mãn kinh, chỉ 4% mắc ở tuổi trước 40.
Đây là bệnh lý phụ khoa nguy hiểm ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của phụ nữ. Cùng BookingCare tìm hiểu về vấn đề sức khỏe này qua bài viết dưới đây.
Ở người phụ nữ, nội mạc tử cung luôn được tái tạo, phát triển và bong ra theo chu kỳ kinh nguyệt. Chức năng chính của nội mạc tử cung là tạo ra môi trường tốt cho trứng đã thụ tinh làm tổ và phát triển.
Những thay đổi của nội mạc tử cung có liên quan chặt chẽ với sự kích thích của nội tiết tố buồng trứng. Vì một nguyên nhân nào đó làm cho lớp nội mạc này phát triển và biệt hóa bất thường có thể dẫn đến hình thành các tế bào và tổ chức ác tính. Từ đó dẫn đến bệnh lý Ung thư nội mạc tử cung.
Phần lớn những tế bào bất thường xuất phát từ nội mạc vùng đáy tử cung, xâm lấn lớp cơ tử cung, cổ tử cung, vòi trứng, buồng trứng và lan tràn sang các cơ quan khác trong cơ thể gây nên hiện tượng di căn nếu không được phát hiện sớm.
Ung thư nội mạc tử cung thường không gây ra các triệu chứng rõ ràng ở giai đoạn đầu. Tuy nhiên khi bệnh phát triển có thể xuất hiện một số dấu hiệu và triệu chứng. Dưới đây là một số dấu hiệu ung thư nội mạc tử cung mà phụ nữ có thể lưu ý:
Những triệu chứng trên thường không đặc hiệu với tình trạng bệnh nên thường dễ bỏ qua trong giai đoạn sớm.
Ung thư nội mạc tử cung thường xuất phát từ sự rối loạn nội tiết sinh sản hoặc do các biến đổi gen trong tế bào tử cung, dẫn đến sự phát triển bất thường và không kiểm soát của chúng. Mặc dù nguyên nhân ung thư nội mạc tử cung cụ thể vẫn chưa rõ nhưng có một số yếu tố được xác định có thể tăng nguy cơ phát triển.
Những yếu tố này thường tương tác với nhau và có thể ảnh hưởng đồng thời đến nguy cơ phát triển ung thư nội mạc tử cung.
Thăm khám âm đạo thấy tử cung to hơn bình thường, có thể phát hiện thấy u khi tổn thương xâm lấn ra ngoài thanh mạc hoặc ra tổ chức lân cận, có khi u lan tràn cả xuổng cổ tử cung.
Ở giai đoạn đầu có thể thấy tử cung bình thường, chỉ thấy ra huyết. Toàn thân bệnh nhân có thể đau sốt dễ nhầm lẫn với một tình trạng bội nhiễm trong lòng tử cung.
Với những bệnh nhân mãn kinh có rong huyết cần chẩn đoán phân biệt với:
Việc chẩn đoán phân biệt là cực kỳ quan trọng để đưa ra phương pháp điều trị chính xác nhất cho bệnh nhân. Tránh điều trị sai vừa không điều trị đúng bệnh, vừa làm nặng thêm tình trạng bệnh.
Ung thư nội mạc tử cung thường được chẩn đoán khi bệnh còn khu trú, các tế bào ác tính chưa lan ra khỏi thân tử cung nên được điều trị tốt và có tỷ lệ khỏi lên tới 90%.Có nhiều phương pháp điều trị ung thư nội mạc tử cung.
Phẫu thuật là phương pháp điều trị chủ yếu cho hầu hết bệnh nhân, tuy nhiên trong một vài trường hợp, các phương pháp khác có thể được sử dụng. Lựa chọn chiến lược điều trị đối với bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung dựa trên các yếu tố:
Tia xạ được dùng như một liệu pháp bổ trợ cho phẫu thuật giúp giảm tái phát.
Xạ trị có thể dùng xạ ngoài hoặc xạ trong bằng Radium hoặc Iridium tại chỗ sau đó dùng Co60 chỉ định cho những bệnh nhân không thể mổ được và các trường hợp đã có di căn hoặc tái phát.
Hoá trị sử dụng hoá chất để diệt tế bào ung thư. Hoá chất được đưa vào cơ thể thông qua đường truyền tĩnh mạch hoặc đường uống, từ đó vào máu và được đưa đi khắp cơ thể. Hoá chất được sử dụng theo các chu kỳ, giữa các chu kỳ lại có các quãng nghỉ. Đa số trường hợp các bác sĩ chỉ định phối hợp 2 hoá chất trở lên. Điều trị hoá chất có thể kéo dài nhiều tháng.
Điều trị hoá chất có thể khiến người bệnh cảm thấy rất mệt mỏi, ăn uống kém, rụng tóc. Tuy nhiên, các tác dụng phụ trên thường giảm theo thời gian sau kết thúc điều trị.
Phương pháp này sử dụng nội tiết tố hoặc các thuốc kháng nội tiết để điều trị ung thư. Các thuốc này không giống các thuốc điều trị triệu chứng của mãn kinh.
Ung thư nội mạc tử cung hoàn toàn có thể chữa khỏi nếu được phát hiện trong giai đoạn sớm của bệnh. Vì vậy khi thấy bất kỳ dấu hiệu nào bất thường trong cơ thể, đặc biệt là các dấu hiệu về các bệnh phụ khoa của chị em phụ nữ cần đến ngay các cơ sở y tế chuyên khoa để thăm khám và điều trị kịp thời.