Tăng, hạ huyết áp ở phụ nữ mang thai là tình trạng thường xuyên xảy ra, tuy nhiên nhiều bà mẹ vẫn rất lo lắng về vấn đề này.
“Tăng/tụt huyết áp khi mang thai có ảnh hưởng gì đến thai nhi không?” - đó là điều băn khoăn của rất nhiều người. Việc đến bác sĩ tim mạch để được khám và tư vấn là rất cần thiết.
Trong bài viết này, chúng thôi xin được chia sẻ thêm một số thông tin để các mẹ có thể hiểu rõ hơn, và cũng để có cách điều trị và phòng tránh khi huyết áp thay đổi khi mang thai.
Các thai phụ thường hay bị chứng tăng huyết áp nhiều hơn so với tụt huyết áp. Có 2 cách xác định mức độ huyết áp có bình thường hay không.
Một là, khi chỉ số huyết áp trên 140/90 mmHg được gọi là tăng huyết áp.
Hai là, khi huyết áp tâm thu tăng trên 30 mmHg hoặc huyết áp tâm trương tăng trên 15 mmHg so với mức huyết áp đo được ở thời điểm trước khi mang thai thì có nghĩa là bà mẹ đã bị tăng huyết áp.
Tương tự với tụt huyết áp trong thai kỳ. Một người khỏe mạnh bình thường sẽ có mức huyết áp từ 110/70 tới 120/80 mmHg.
Huyết áp thấp được xác định khi mức huyết áp của mẹ bầu bằng hoặc nhỏ hơn 100/60 mm Hg. Đây là bệnh thường gặp ở phụ nữ có thai, thường diễn ra vào 3 tháng đầu tiên và 3 tháng giữa của thai kỳ.
Khi mang bầu, các bà mẹ sẽ dễ bị cao huyết áp bởi lưu lượng máu bơm tới các cơ quan có xu hướng tăng lên. Khi tim phải tích cực co bóp để bơm máu sẽ gây ra các hiện tượng như tim đập nhanh, không đều gây tức ngực và khó thở.
Tăng huyết áp trong thai kỳ hiện nay vẫn chưa tìm được nguyên nhân cụ thể. Một số yếu tố nguy cơ dẫn đến tăng huyết áp như ăn nhiều muối, ít vận động thể lực, thừa cân, tăng cholesterol, căng thẳng thần kinh, tâm lý…
Bên cạnh đó, tuổi của sản phụ cao (trên 35 tuổi); gia đình có tiền sử cao huyết áp; chế độ dinh dưỡng lúc mang thai chưa tốt, kèm theo đó là chứng thiếu máu trầm trọng; chửa sinh đôi; thai phụ có nước ối quá nhiều; thời tiết thay đổi đột ngột, nóng lạnh thất thường… cũng là những nguyên nhân có thể gây tăng huyết áp ở phụ nữ mang thai.
Ngoài ra, một số bệnh lí mắc phải có thể làm tăng huyết áp ở phụ nữ có thai như: bệnh về thận, tuyến thượng thận, tuyến giáp, bệnh tim mạch, tiểu đường…
Bà bầu là đối tượng thường bị bệnh tụt huyết áp, do trong quá trình mang thai khối lượng cơ thể người mẹ thường tăng khoảng 50% so với trước, điều này làm cho lượng máu truyền lên não không được cung cấp đủ, dẫn đến tình trạng tụt huyết áp vào 3 tháng đầu và giữa của thai kỳ.
Bên cạnh đó, Hormone thai nghén progesterone sẽ làm giãn thành mạch máu và đó là lý do tại sao huyết áp thường giảm trong giai đoạn giữa thai kỳ.
Thời tiết nóng bức sẽ làm tăng nguy cơ hạ huyết áp và bị mất nước cho thai phụ. Ngoài ra, nếu phải đứng lâu, thai phụ cũng dễ bị chóng mặt do tụt huyết áp.
Trong thời gian mang thai, máu có xu hướng dồn xuống phía chân, ít lưu thông lên não. Nếu đột ngột nằm xuống hay đứng dậy, thai phụ sẽ cảm thấy hoa mắt, chóng mặt.
Dù là tăng hay giảm huyết áp ở mẹ trong thời gian mang thai đều có thể dẫn kết những ảnh hưởng đến sức khỏe của cả mẹ và thai nhi.
Đối với thai phụ: tăng huyết áp ở phụ nữ mang thai có thể dẫn đến bệnh tim, suy tim, cản trở chức năng cầm máu, chức năng của thận cũng bị suy giảm, có thể dẫn đến hiện tượng chảy máu não, gan tạng bị tổn thương, tiểu cầu cạn kiệt, máu không đông...
Ảnh hưởng lớn nhất là việc tác động của nó lên hệ tim mạch dẫn đến hiện tượng tiền sản giật và tăng nguy cơ tử vong.
Về phía thai nhi: tăng huyết áp ở phụ nữ mang thai sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thai nhi. Thai có thể bị chết lưu trong tử cung, bị ngạt thở và chết do thiếu máu cục bộ hoặc đẻ thiếu tháng…
Tuy không trực tiếp gây ra các biến chứng nguy hiểm ảnh hưởng đến tính mạng như huyết áp cao, tuy nhiên bệnh huyết áp thấp cũng là căn bệnh mà mẹ bầu không thể chủ quan bỏ qua. Các dấu hiệu của bệnh huyết áp thấp như hoa mắt, chóng mặt có thể khiến mẹ bầu dễ bị ngã, ngất, gây nguy hiểm cho mẹ và thai nhi trong bụng.
Huyết áp thấp làm cho cơ thể thai phụ mệt mỏi, chán ăn, mất nước... ảnh hưởng tới việc cung cấp dưỡng chất, dẫn tới tình trạng thai nhi bị thiếu dinh dưỡng, chậm phát triển.
Nếu thai phụ bị ngất do huyết áp thấp nhưng không được phát hiện và điều trị kịp thời, quá trình truyền oxy lên não và các bộ phận sẽ bị ảnh hưởng, đồng nghĩa với việc thai nhi không được cung cấp đủ dinh dưỡng và oxy để phát triển.
Tăng huyết áp ở thai phụ phổ biến hơn so với hạ huyết áp và cũng nguy hiểm hơn nếu không được phát hiện và kiểm soát. Nhưng dù là tăng hay giảm huyết áp, người bệnh cũng tuyệt đối không tự ý chẩn đoán, cũng như tự ý sử dụng thuốc khi chưa có chỉ định của bác sỹ. Tất cả các loại thuốc đều có thể gây ra tác dụng phụ và làm ảnh hưởng trực tiếp đến thai nhi.
Đối với các trường hợp hạ huyết áp: Tùy thể trạng của người bệnh mà bác sỹ quyết định phương pháp điều trị, thông thường bệnh có thể không cần điều trị bằng thuốc, thai phụ nên điều chỉnh chế độ ăn uống, sinh hoạt và nghỉ ngơi hợp lý. Cũng phụ thuộc vào nguyên nhân gây tụt huyết áp là gì mà bác sỹ đưa ra tư vấn và điều trị phù hợp.
Đối với các trường hợp tăng huyết áp: Tăng huyết áp khi mang thai gây ra nhiều ảnh hưởng nguy hiểm, vì vậy các thai phụ cần thăm khám và kiểm tra tăng huyết áp định kỳ. Tránh để trường hợp huyết áp tăng quá cao mới tìm cách điều trị.