Ung thư tuyến giáp thể nang là loại thường gặp thứ hai trong bệnh ung thư tuyến giáp, tỉ lệ mắc đứng sau ung thư tuyến giáp thể nhú, và thường gặp hơn các dạng khác như thể tủy, thể không biệt hóa, thể bất thục sản. Thể nang cùng với thể nhú đều là loại biệt hóa, có thể chữa được, có tiên lượng tốt.
Triệu chứng của ung thư tuyến giáp thể nang
Cũng gần tương tự với ung thư tuyến giáp thể nhú, thể nang cũng là một thể biệt hóa, tiến triển của nó thường chậm, triệu chứng thường âm thầm, thường hay gặp là người bệnh khám định kỳ, đôi khi có thể tự mình sờ thấy khối ở cổ, hoặc cũng đôi khi là ho khan kéo dài.
Khi có những triệu chứng như sờ thấy hạch, hay khàn tiếng, hay nuốt vướng nghẹn thì giai đoạn của bệnh đã muộn hơn, do đã có di căn hạch hoặc khối u xâm lấn thần kinh thanh quản, thực quản.
Chẩn đoán ung thư tuyến giáp thể nang
Chẩn đoán với ung thư tuyến giáp thể nang có sự khác biệt khá lớn so với thể nhú. Với thể nhú thông qua xét nghiệm tế bào học trước mổ có thể cho ta biết được đó là thể nhú, và độ chính xác cũng khá cao. Tuy nhiên chẩn đoán ra thể nang trước mổ là điều khó khăn, và việc này thường được quyết định bởi giải phẫu bệnh sau mổ.
Các phương tiện và xét nghiệm chẩn đoán trước mổ cũng không có gì khác biệt so với thể nhú, bao gồm: siêu âm, hóc môn tuyến giáp, tế bào học, nội họng thanh quản, xạ hình, hay thậm chí là chụp cắt lớp vi tính, hay cộng hưởng từ,… giải phẫu bệnh sau mổ vẫn được coi là tiêu chuẩn vàng để xác định bệnh và thể bệnh.
Điều trị ung thư tuyến giáp thể nang
Ung thư tuyến giáp thể nhú cùng với thể nang là hai thể ung thư tuyến giáp biệt hóa, về điều trị cũng tương tự như nhau, chỉ có tiên lượng thì thể nhú vẫn là tốt hơn.
- Phẫu thuật tuyến giáp là phương pháp điều trị chính, quyết định thành công của việc điều trị.
- I ốt phóng xạ (I131) là phương pháp điều trị bổ sung sau phẫu thuật.
- Liệu pháp hóc môn là duy trì.
- Với giai đoạn muộn, di căn xa thì có thêm lựa chọn là điều trị đích.
Biến chứng do điều trị ung thư tuyến giáp thể nang
Trong thời gian bị bỏ qua, ung thư tuyến giáp thể nang có thể gây ra các triệu chứng do bị chèn ép và/hoặc thâm nhiễm các mô xung quanh và có thể di căn đến phổi và xương.
Biến chứng do phẫu thuật thì đối với thể bệnh lý nào của tuyến giáp cũng là như nhau. Tuy nhiên với thể biệt hóa như thể nhú và nang thì bệnh tiến triển chậm nên việc điều trị phẫu thuật cũng thường thuận lợi hơn các thể khác, tỉ lệ của các rủi ro cũng thấp hơn. Có thể kể đến:
- Suy giáp: Sau phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp, tình trạng này sẽ được cải thiện khi dùng hóc môn thay thế.
- Khàn tiếng, nuốt sặc, hay thậm chí khó thở do tổn thương thần kinh thanh quản.
- Suy tuyến cận giáp do tổn thương tuyến cận giáp.
Việc sử dụng iod phóng xạ có thể gây ra những hậu quả sau:
- Viêm tuyến giáp do phóng xạ và nhiễm độc giáp thoáng qua ở bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ thùy .
- Buồn nôn, chán ăn và nhức đầu (không phổ biến).
- Xơ phổi.
- Phù não ở bệnh nhân di căn não (có thể ngăn ngừa bằng điều trị bằng glucocorticoid).
- Vô sinh vĩnh viễn và thiểu tinh thoáng qua hoặc kinh nguyệt không đều.
- Quái thai và sảy thai tự nhiên
- …
Các vị trí di căn thường xuyên nhất là phổi và xương, tiếp theo là não và gan; di căn đến các vị trí khác xảy ra ít thường xuyên hơn.
Ung thư tuyến giáp thể nang có thể chữa khỏi và có tiên lượng tốt. Tuy nhiên việc điều trị đúng và đạt hiệu quả ngay từ đầu là rất quan trọng. Lời khuyên của bác sĩ dành cho bệnh nhân là hãy tìm đúng chuyên gia để nghe lời khuyên hoặc điều trị để tối ưu hóa cho tình trạng bệnh của mình.