
Môi trường sống phức tạp, áp lực học hành căng thẳng, các xung đột gia đình, thay đổi trường lớp, bị hù dọa, ngược đãi… có thể tạo ra sức ép tâm lý, đè nén tinh thần và ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của trẻ.
Trong giai đoạn đại dịch Covid-19 vừa qua, những thay đổi về cuộc sống, sinh hoạt gia đình, phương pháp học tập, ...đã có những ảnh hưởng lớn đến sức khỏe tâm thần của trẻ.
Nhiều trạng thái tâm thần đã được hình thành và phát triển ở trẻ nhỏ và tuổi vị thành niên. Những trạng thái này liên quan mật thiết với sự hình thành bộ não và thể chất đứa trẻ cũng như các hoàn cảnh sống trong gia đình từ bé.
Để bạn đọc hiểu rõ hơn về các rối loạn tâm thần ở trẻ em, chuyên gia Tâm lý Trần Thị Hồng Thu cung cấp và chia sẻ thông tin hữu ích trong bài viết dưới đây.
|
THÔNG TIN CHUYÊN GIA TÂM LÝ TRẦN THỊ TUYẾT HỒNG
|
Trẻ em mắc tự kỉ thường hay biểu hiện bất thường trong mối quan hệ xã hội, không có giao lưu tình cảm, khó khăn trong giao tiếp, thu hẹp các hoạt động và sở thích và có xu hướng lặp lại. Vấn đề này có thể thấy ở trẻ dưới 3 tuổi, có thể do ảnh hưởng tâm lý của mẹ trong quá trình mang thai, do di truyền, viêm não hoặc rối loạn miễn dịch.
Khuyết tật trí tuệ được đặc trưng bởi sự thiếu hụt trong khả năng lập luận, giải quyết vấn đề, lên kế hoạch, tư duy trừu tượng, phán đoán, học tập từ lý thuyết và học tập thông qua trải nghiệm. Trẻ khó khăn trong giao tiếp, tham gia các hoạt động xã hội, sinh hoạt một cách độc lập và ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập. Khuyết tật trí tuệ có thể là hệ quả từ chấn thương trong thời kỳ phát triển.
Đái dầm
Trẻ em không có những rối loạn thực thể đường tiết niệu hay động kinh mà đái dầm ban đêm hoặc đái ra quần ban ngày ít nhất 2 lần trong một tuần, ít nhất 3 tháng liên tiếp bất kể là cố ý hay vô tình. Sau khi đã được hơn 5 tuổi thì được chẩn đoán là rối loạn đường tiết niệu - đái dầm. Hiếm khi rối loạn này tồn tại đến tuổi trưởng thành.
Rối loạn đại tiện
Trẻ đại tiện nhiều lần ra quần không phải vì lí do thực tổn (ỉa chảy). Hiện tượng này thường do không muốn đi đại tiện, lo lắng thái quá, bị xử phạt. Việc này xảy ra ít nhất 1 lần/tháng kéo dài ít nhất 3 tháng và trẻ 4 tuổi trở lên bất kể do tự nguyện hay cố tình.
Những rối loạn học tập có từ những năm đầu đi học chính thức (tức lớp 1 trở lên) thường gặp trong giai đoạn này là: kém phát triển khả năng tính toán, nói ngọng, nói lắp, phát âm kém, kĩ năng viết kém. Nguyên nhân có thể do di truyền, thiếu sự chăm sóc, thiếu động cơ học tập, lo âu sợ hãi, trầm cảm.
Rối loạn này liên quan đến khả năng làm chủ hành vi và cảm xúc và có những hành vi xâm hại đến quyền của người khác hoặc vi phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội. Đứa trẻ không có cảm giác có lỗi hay chuộc lỗi sau mỗi hành vi sai phạm. Trước tuổi vị thành niên, tỷ lệ nam mắc cao hơn so với nữ (1,4/1); tuy nhiên không có sự khác biệt giới tính về tỷ lệ mắc ở trẻ vị thành niên và người trưởng thành.
Trẻ bị rối loạn tăng động giảm chú ý được xác định bởi sự suy yếu các mức độ của giảm chú ý, lộn xộn (thiếu quy tắc), và /hoặc tăng động - xung động. Do đó, trẻ không có khả năng duy trì nhiệm vụ , tỏ ra không lắng nghe, mất đồ dùng vật dụng với mức độ không phù hợp với độ tuổi. Chúng thường hay phá phách và không ngồi yên, bồn chồn, chạy nhảy thái quá.
Xem thêm Clip:
Rối loạn ứng xử bao gồm các hành vi: có sự lặp lại kéo dài của mô thức hành vi vi phạm quy tắc, xâm hại quyền cá nhân của người khác hoặc phá hoại//hủy hoại/ trộm cắp/tước đoạt tài sản, chọc ghẹo người khác, gây gổ, đánh nhau, thô bạo với người khác, ăn cắp, trấn lột, phá phách… Việc tư vấn cá nhân rất quan trọng nhưng gặp nhiều khó khăn và phải kết hợp với liệu pháp gia đình.
Tình huống đưa trẻ đến tình trạng lo âu là do tách mẹ, phải đến trường, chuyển lớp, mất người thân…
Các triệu chứng bao gồm các rối loạn chức năng mà không tìm thấy một bằng chứng thực tổn nào. Chủ yếu là đau bụng, đau đầu, đau cơ thể, mệt mỏi.
Sử dụng ma túy là nguy cơ nổi bật ở lứa tuổi này. Đặc biệt ở trẻ lang thang bụi đời, gia đình tan vỡ, bị đuổi học, bỏ học, vô gia cư.
Thay vì buồn bã thì trẻ em vị thành niên trầm cảm thường biểu hiện chống đối để làm khác sự mong đợi của bố mẹ/ xã hội, hay cáu bẳn và dễ kích động.
Những vấn đề dẫn đến nguy cơ tự sát, sốc/ khủng hoảng sau sự kiện có bạn bè tự sát (không nên đưa ra ý hiểu tự sát là học tập từ môi trường), thất vọng, bị cha mẹ, thầy cô mắng, mất thể diện, có rối loạn tâm thần, lạm dụng chất cấm, bị lạm dụng tình dục…
Bài viết trên đây được chuyên gia Tâm lý Trần Thị Hồng Thu chia sẻ và cung cấp thông tin chuyên môn để bạn đọc yên tâm tham khảo và lựa chọn đi khám.