Cúm là bệnh về đường hô hấp thông thường do mắc phải virus cúm. Hàng năm, có khoảng từ 3% đến 11% số người mắc bệnh cúm A.Trẻ em, trẻ sơ sinh và người lớn trên 65 tuổi có nguy cơ mắc các triệu chứng cúm theo mùa cao hơn, mặc dù vậy, bất kỳ ai cũng có thể bị cúm. Bài viết sau đây sẽ giúp giải đáp những điều cần biết về bệnh cúm A.
Bệnh cúm là bệnh nhiễm virus đường hô hấp cấp tính gây ra bởi virus cúm (Influenza) gồm 3 typ A, B và C gây ra. Ở vùng khí hậu ôn đới, dịch bệnh theo mùa xảy ra chủ yếu vào mùa đông. Trong khi đó ở vùng nhiệt đới, cúm có thể xảy ra quanh năm, khiến dịch bùng phát bất thường hơn.
Tại Việt Nam, dịch cúm mùa kéo dài từ tháng 6 đến hết năm, những tháng cuối năm, thời tiết mùa chuyển mùa, khí hậu lạnh là điều kiện thuận lợi để virus cúm phát triển, lây nhiễm mạnh trong cộng đồng. Theo nghiên cứu về bệnh cúm được công bố trên tạp chí y khoa hàng đầu thế giới The Lancet, tỷ lệ mắc cúm tại Việt Nam cao hơn gấp 5 lần trung bình thế giới.
Các chủng virus cúm phổ biến nhất ở Việt Nam là cúm A (H3N2), cúm A (H1N1), cúm B và cúm C. Cúm thường diễn biến nhẹ và hồi phục trong vòng 2 – 7 ngày nhưng ở những trường hợp trẻ nhỏ, người già, suy giảm miễn dịch, bệnh dễ diễn biến nặng và gây nhiều biến chứng nguy hiểm.
Cúm A phổ biến với các triệu chứng thông thường, diễn biến theo giai đoạn bệnh:
Nếu bệnh không diễn biến như bình thường và nặng lên gây các biến chứng thì có thể xuất hiện thêm các triệu chứng nặng như ho đờm xanh vàng, đau ngực thậm chí là khó thở, co giật…
Virus cúm A có thể lây trực tiếp từ người này sang người khác thông qua đường hô hấp. Khi người bệnh ho, hắt hơi, thậm chí là nói chuyện… dịch mũi, họng, các giọt nước bọt mang theo virus thoát ra môi trường bên ngoài, người lành hít phải cũng có thể nhiễm bệnh.
Ngoài ra, một người còn có thể mắc cúm A khi:
Thông thường chỉ cần dựa vào triệu chứng của cúm A và tiền sử dịch tễ đã có thể nghi ngờ đến bệnh cúm A. Tuy nhiên để có bằng chứng chính xác về sự hiện diện của virus cúm sẽ cần đến các phương pháp xét nghiệm chẩn đoán cúm bao gồm: nuôi cấy virus, chẩn đoán huyết thanh học, xét nghiệm nhanh phát hiện kháng nguyên, phản ứng chuỗi men RT-PCR, miễn dịch huỳnh quang (*).
May mắn thay, bệnh cúm A thường tự khỏi sau 7-10 ngày nếu được nghỉ ngơi hợp lý và áp dụng các biện pháp điều trị tại nhà. Hầu hết các trường hợp được chỉ định điều trị tại chỗ, chỉ có một số ít diễn biến nặng phải được điều trị và cấp cứu kịp thời tại các cơ sở y tế.
Với những người bị cúm A với các triệu chứng nhẹ có thể tự điều trị tại nhà bằng cách nghỉ ngơi, vệ sinh mũi họng, bổ sung dinh dưỡng tăng sức đề kháng ngoài ra có thể sử dụng các thuốc hạ sốt giảm đau thông thường như paracetamol khi có sốt cao và đau đầu nhẹ. Tránh tụ tập nơi đông người và sử dụng khẩu trang để không lây lan bệnh cho mọi người xung quanh.
Tuy nhiên khi các triệu chứng nặng hơn hoặc sau 5-7 ngày các triệu chứng không giảm, xuất hiện các triệu chứng mới,có các biến chứng, người bệnh cần đến cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị, kịp thời tránh những biến chứng do cúm A gây ra.
Cách tốt nhất để phòng ngừa bệnh cúm A là tiêm vắc xin cúm hàng năm. Vắc xin huấn luyện hệ thống miễn dịch giúp nhận biết virus cúm và chống lại chúng trước khi bị bệnh.
Theo tổ chức y tế thế giới, việc tiêm phòng vắc xin cúm có hiệu lực bảo vệ lên tới 80-90%, làm giảm tỷ lệ tử vong do cúm đến 70-80%. Đặc biệt các đối tượng có nguy cơ cao mắc cúm như trẻ em từ 6 đến 24 tháng, người già trên 65 tuổi, người suy giảm miễn dịch nên được tiêm phòng vắc xin cúm hàng năm.
Ngoài ra một vài biện pháp dưới đây cũng giúp ích trong việc phòng tránh bệnh cúm A:
Cúm A là loại vi-rút cúm phổ biến nhất gây ra dịch cúm theo mùa đặc biệt trong những tháng có thời tiết lạnh hơn. Bệnh rất dễ lây lan, bất cứ ai cũng có thể mắc bệnh cúm A, do vậy mỗi người cần trang bị kiến thức về nguyên nhân, triệu chứng, cách điều trị và phòng ngừa bệnh hiệu quả để tránh các biến chứng nguy hiểm do bệnh cúm A.